XUNG QUANH CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN MỚI: “Nghe, đọc, nói, viết” như học ngoại ngữ?
VH- Đó là một trong nhiều ý kiến trao đổi được nêu ra tại cuộc Tọa đàm đánh giá chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn mới vừa được Hội đồng Lý luận và Phê bình Văn học Nghệ thuật Trung ương tổ chức đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của dư luận.
Không xuất phát từ mục tiêu “học ngoại ngữ”
Đó là ý kiến trao đổi của GS.TS Lê Huy Bắc, Đại học Sư phạm Hà Nội. GS Bắc hoàn toàn đồng ý với ý kiến cho rằng, đặc thù của môn Ngữ văn là bồi dưỡng tư tưởng, do đó chương trình cần đạt được mục tiêu giáo dục thẩm mỹ và giáo dục tư tưởng, chứ không chỉ có nghe, nói, đọc, viết. Theo đó, chương trình Ngữ văn mới không xuất phát từ mục tiêu “học ngoại ngữ”, không hướng đến việc “tách phần giáo dục Ngôn ngữ với Văn học thành những phần tách bạch” mà là “dạy - học văn” hướng tới những giá trị thẩm mỹ và tư tưởng của văn học. Do ngôn ngữ văn chương là ký hiệu thẩm mỹ mang tính tư tưởng, nên muốn “đọc”, “hiểu” hay khai thác các giá trị tưởng thẩm mỹ nào của tác phẩm văn chương cũng đều đi qua con đường ngôn ngữ, không tiếp cận bằng ngôn ngữ thì mọi tri thức văn chương đều không thể được thực hiện giữa người dạy và học. Từ “đọc, viết, nói và nghe” (khác với “nghe, nói, đọc, viết” như học ngoại ngữ), các giá trị tư tưởng và thẩm mỹ sẽ được hình thành trong đầu óc và tâm hồn học sinh. Việc “hình thành” các giá trị tư tưởng và thẩm mỹ đó, theo chủ ý của ban soạn thảo chương trình, là chủ yếu do học sinh tự tri nhận mà có được, giáo viên chỉ là người “gợi dẫn” hay “làm mẫu” chứ không làm thay, giáo viên cung cấp phương pháp và chỉ ra cách thức để học sinh đi đến cái đích tri nhận của cá nhân mình. Từ đó, mỗi học sinh sẽ có một kiểu cảm xúc thẩm mỹ, một cách tri nhận tác phẩm của riêng mình chứ không hề “đồng phục”, nói “rập khuôn” theo lối bình tán, nặng “truyền bá kiến thức” như cách dạy nhồi nhét bấy lâu..
Theo đề xuất, học Ngữ văn nhằm bồi dưỡng tư tưởng chứ không chỉ “đọc, viết, nói và nghe” Ảnh: ĐÀO NGỌC THẠCH
Chương trình “mở” nhưng không quá khó kiểm soát
PGS.TS Đỗ Ngọc Thống, chủ biên chương trình sách giáo khoa (SGK) Ngữ văn mới đã khẳng định như vậy khi một số ý kiến lo rằng độ mở của chương trình quá lớn sẽ khó kiểm soát, khó đảm bảo sự thống nhất giữa các SGK. Theo ông Thống, chương trình mới phải xác định cụ thể nội dung và yêu cầu cần đạt đối với mỗi lớp nhưng không quá chi tiết để căn cứ vào chương trình biên soạn được nhiều SGK. Nếu chương trình quy định cụ thể, chi tiết đến từng tác phẩm văn học hoặc trích đoạn tác phẩm ở từng lớp thì sẽ khó thực hiện chủ trương “một chương trình, nhiều SGK”, đa dạng hóa SGK. Đây cũng là xu thế chung về chương trình môn học này của các nước có nền giáo dục phát triển. Trước hết, việc lựa chọn tác phẩm phải tuân thủ các tiêu chí đã quy định ngay trong chương trình môn học. Thứ hai, SGK phải tuân thủ các tiêu chuẩn SGK được quy định tại Thông tư số 33 của Bộ GD&ĐT. Tiếp theo, SGK phải qua biên tập của nhà xuất bản. Cuối cùng, SGK phải được Hội đồng quốc gia thẩm định SGK xem xét, thông qua thì mới có thể được xuất bản. Đó là chưa kể tất cả các SGK đều chịu sự đánh giá, sàng lọc của giáo viên và học sinh trong khi sử dụng.
Phân biệt 3 loại văn theo cấp độ khác nhau là hợp lý
Góp ý cho chương trình Ngữ văn mới, GS Phong Lê đồng ý với cách phân biệt 3 loại văn, theo cấp độ khác nhau bao gồm Văn thông tin: cần cho mọi nhu cầu giao tiếp, Văn nghị luận: cần chất trí tuệ và Văn nghệ thuật: cần xúc cảm, mỹ cảm. Theo GS Lê, Ngữ văn - đó là nghệ thuật của ngôn từ, để phân biệt với các loại hình nghệ thuật khác như họa, nhạc. Trong chương trình phổ thông cần trang bị sự hiểu biết và vận dụng cần thiết cả 3 loại văn. Tối đa là cả 3. Tối thiểu là 1 và 2. Văn thông tin để diễn đạt tốt các ý tưởng (trong nói và viết) cho bất cứ ai là công dân từ nhỏ đến lớn, trên mọi ngành nghề, mọi phân công xã hội để ăn nói được gẫy gọn, sáng sủa; viết công văn, thư từ (ở tất cả các cấp từ xã, phường đến Trung ương) không sai, vụng, gây nhầm hiểu hoặc khó hiểu. Với văn nghị luận, trong diễn đạt phải có ý tưởng, tư tưởng. Có thêm cảm xúc và có cách thức trình bày mang tính sáng tạo đó là văn nghệ thuật. Nói như Rolland Barthes (1915-1980) chỉ được xem là nhà văn những người có được văn phong và tạo được một ngôn ngữ riêng. Còn Nguyễn Tuân thì rất dị ứng với những người viết cẩu thả, và người đọc nông nổi. Như vậy, học Văn tối thiểu là để giúp trẻ em biết cách thức giao tiếp trong sinh hoạt và trong trường đời. Còn tối đa - sẽ có một tỷ lệ nhỏ, hoặc rất nhỏ trong số các em rồi sẽ thành nhà báo, nhà văn, nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình văn chương, hoặc khoa học xã hội - nhân văn, và đó cùng là một yêu cầu đặt ra, để trong sự chọn lọc tự nhiên của nó, do nhờ vào năng khiếu mà biết đâu vài chục, hoặc vài trăm năm sau, dân tộc Việt sẽ có thêm một Nguyễn Du cho thời hiện đại. Hoặc không lâu nữa, sẽ có tiếp Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Nam Cao, Xuân Diệu, Tố Hữu, Chế Lan Viên, Tô Hoài... cùng rất đông các tên tuổi mới sau 1945, kể từ Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng… đến Xuân Quỳnh, Hữu Thỉnh, Đỗ Chu, Phạm Tiến Duật…
Nếu học ngoại ngữ (tiếng Anh chẳng hạn), thì trật tự “nghe, nói, đọc, viết” đúng, nhưng với việc học ngôn ngữ quốc gia và văn chương ở trường phổ thông thì cụm từ đó phải đổi trật tự như nhóm soạn thảo chương trình đã đề xuất là “đọc, viết, nói và nghe”. Việc “đọc” văn bản là cơ sở để luyện “viết”, cũng như để “nói và nghe” sau đó. Từ trật tự này, chúng ta sẽ thấy, chương trình không xuất phát từ mục tiêu “học ngoại ngữ”, không hướng đến việc “tách phần giáo dục Ngôn ngữ với Văn học thành những phần tách bạch” như một số ý kiến mà là “dạy - học văn” hướng tới những giá trị thẩm mỹ và tư tưởng của văn học. (GS.TS Lê Huy Bắc) |
QUỐC HÙNG